Nam Mô A Di Ðà Phật.
Vị sư già đứng đó đã lâu nhưng chẳng ai để ý đến ông cả. Ðó là vị
sư mình hạc, xương mai, khuôn mặc gầy gò, vàng bệch nhưng luôn luôn tươi cười,
biểu lộ đức từ bi, bác ái.
Cách mấy bước, gần đó là một nhà kiếm sĩ. Chàng ta cao lớn nhưng
người khô đét. Nét mặt khắc khổ nhưng không giống vẻ khắc khổ của nhà tu. Ðó là
vẻ khắc khổ của một kiếm sĩ hết thời, tài nghệ không còn nuôi sống nổi thân nên
đành cắp kiếm đi giang hồ, rày nay mai đó.
Kiếm sĩ vào quán một lần với nhà sư. Chàng thét gọi tửu bảo. Tên
này chạy ra, lúng túng không biết nên tiếp ai trước giữa hai người.
Nhà sư nói với tửu bảo: - Anh hãy dọn rượu thịt cho kiếm
khách trước. Ông ấy đến trước ta và dáng chừng còn nhiều việc gấp.
Nghe vậy, chàng kiếm sĩ vội xua tay: - Tửu bảo hãy tíếp nhà
sư trước. Cần giữ lễ với một vị đạo cao đức trọng, còn kẻ giang hồ khốn khó,
khỏi cần trọng đãi.
Hai người cùng thi lễ – Kiếm sĩ tự giới thiệu:
- Tôi là Ta Mã Sum.
Hai người cùng ngồi một bàn với nhau – thức
ăn dọn ra chỉ có cơm trắng, măng kho và ngó sen luộc. Qua câu chuyện trao đổi,
họ mới biết là cả hai cùng đang đến tỉnh Ki Ô Tô bằng con đường Tô cai Dô. Tại
sao họ không cùng kết bạn với nhau, cùng đi một lượt cho dặm dài đỡ vắng vì có
bạn đồng hành? sau bữa cơm, hai người đã trở nên đôi bạn. Hành lý của họ không
nhiều lắm. Ta Mã Sum chỉ có hai thanh kiếm, còn nhà đạo sĩ thì xách một cái bị
vải trông rất nghèo nàn. Họ vừa đi vừa trò chuyện rất tương đắc. Nhà sư luôn
kể chuyện hành đạo còn Ta Mã Sum thì kể chuyện những kinh nghiệm từng trải trên
bước đường giang hồ phiêu bạt của mình.
Con đường Cai Tô Dô thật nhộn nhịp. Hành
khách ngược xuôi, đủ mặt các nhà sư, Kiếm sĩ, những người hành hương đi viếng
các đền chùa, cả những người hát dạo, mãi võ, làm trò thủ thuật và rất nhiều
hành khất đi xin ăn, đầu đội chiếc nón thật lớn, che kín mặt.
Nhiều vị lãnh chúa, thượng hạng ngự trong
kiệu, có quân lính theo hầu. Mỗi lần họ đi qua, dân chúng lại kính cẩn cúi mình
rạp đất, tỏ sự chào mừng. Nếu có vị lãnh chúa cùng đi chung một đường thì
vị nào chức vị cao, bổng lộc hậu sẽ được nhường đi trước.
Người ta còn thấy trên đường Tô Cai Dô những
văn nhân, thi sĩ đi ngắm cảnh, tìm vần thơ hoặc những họa sĩ đang say mê ghi
lại phong cảnh hữu tình trên nền lụa.
Ta Mã Sum kể cho nhà sư nghe về dĩ vãng của
mình, đã theo học những ai để trở thành kiếm sĩ, đã từng đụng độ bao nhiêu trận
và giết được bao nhiêu người.
Vị sư già không chê trách gì Ta Mã Sum. Theo
oÂng , ông là người đạo đức suốt đời không hề làm hại ai, không giết ai, không
gây cho ai buồn rầu, đau đớn. Nhưng , Ta Mã Sum, chàng là kiếm sĩ mà kiếm sĩ
thì phải đánh, phải giết. Ông không thể khuyên chàng hay chỉ trích những hành
động đó. Mỗi người có một số phận. Sau khi chết, họ sẽ đầu thai trở lại làm
người hay làm thú vật tùy theo cái nhân mà họ gây ra. Ai cũng có thể gặp cơ
duyên để trở nên tốt cả nếu họ chịu tu hành. Con người, súc vật, cây cỏ một
ngày kia đều có thể thành Phật.
Nhà sư luôn miệng “Nam Mô” và đem các điều
đạo lý ra nói cho Ta Mã Sum nghe. Ông kể chuyện Hoàng tử Ấn Ðộ bị Hoàng hậu độc
ác móc mắt nhưng vẫn từ bi, tha thứ cho kẻ thù vì áp dụng câu: “Lấy oán
báo oán, oán oán chập chồng, lấy ân báo oán, oán ấy mới tiêu tan”.
Sau mấy ngày làm bạn đồng hành, họ đã trở nên
thân thiết. Nhà sư có điều gì đều nói hết cho kiếm sĩ nghe, không giấu một
chuyện gì. Một hôm, ông trỏ cái bị vải đang đeo trên vai, nói với Ta Mã
Sum: - Ông bạn có biết cái bị vải mà tôi đeo kè kè bên mình này đựng cái
gì không?
Ta Mã Sum lắc đầu:
- Không biết được! có gì quý giá không,
thưa đạo sĩ.
- Quý lắm.
- Chắc là một tượng Phật?
- Không.
- Hay là một cuốn kinh quý giá mang lời
vàng ngọc của đức Như Lai?
- Cũng không nốt.
Ta Mã Sum nghĩ thầm: “Hay là một chiếc răng
của đức Phật”. Hắn định hỏi đùa thế nhưng không dám, đành tuyên bố chịu
thua.
Nhà sư thông thả đáp:
- Trong chiếc bị nghèo nàn này có hai
trăm nén bạc.
Ta Mã Sum cười:
- Ðạo sĩ giỡn tôi làm chi, tội nghiệp!
Nếu người có một số tiền lớn như vậy thì người đã chẳng đi khất thực như tôi đã
gặp. Nếu quả thực là chiếc bị này đựng hai trăm nén bạc thì người phải mặc áo
đẹp, trọ ở khách sạn sang trọng, mời tôi uống rượu quý, có đâu lại trọ ở
cái quán nghèo nàn, nơi chúng ta gặp nhau.
Gương mặt đạo sĩ sáng lên, hớn hở:
- Không, bần đạo không đùa đâu. Bần đạo mang
theo 200 nén bạc nhưng không phải để tiêu dùng cho mình. Bạn muốn biết để
làm gì phải không? Ðã gọi là chỗ thân tình, tôi xin kể bạn nghe.
Số là một ngày nọ, tôi đi từ Ô Mô Ri đến đền
I Kê Ga Ni. Có lẽ bạn biết vùng đó. (Ta Mã Sum gật đầu). Tôi chưa hề thấy cảnh
sắc vùng nào đẹp hơn vùng ấy. Thời tiết êm dịu. Lòng tôi phơi phới, thanh thản.
Thốt nhiên, tôi nghe tiếng chuông báo hiệu, mời tín đồ lại hành lễ tại đền thờ.
Tiếng chuông thấm sâu trong lòng tôi và tôi cảm thấy mến yêu đức Thế Tôn vô
vàn. Tôi nguyện rằng suốt đời phải làm sao đúc cho được một tượng Phật bằng
đồng. Từ nhiều năm qua, tôi đã đi khắp nước Nhật để xin bố thí và để dành dụm
được 200 nén bạc đựng trong cái bị này. Chuyến đi này đến Ki Ô Tô, tôi sẽ
mướn một nhà điêu khắc lành nghề thực hiện giấc mộng mà bao lâu nay tôi ấp ủ.
Ðôi mắt đạo sĩ rực sáng lên vì vui thích.
Hình như ông đang hình dung trước mắt, pho tượng Phật hiện lên, kết quả
của bao nhiêu năm ông đã chịu gian khổ, dành dụm thực hiện điều mình ước
nguyện.
Ông say sưa nói tiếp:
- Ðức Phật sẽ ngự trên một tòa sen, ngồi theo
lối kiết già. Bàn tay mặt của Ngài sẽ đưa lên vai, lòng tay xoay ra ngoài để
ban phước cho chúnh sanh, trên trán Ngài có dấu hiệu toàn trí, toàn năng và nụ
cười của Ngài sẽ là nụ cười từ bi vô lượng. Ðó, bạn đã biết lý do vì sao
tôi giữ gìn cẩn trọng cái bị này.
Ông cười đùa:
- Người ta nói rằng ai mang vàng bạc trong
người sẽ đeo theo mối hiểm nguy nhưng với một kẻ anh hùng mã thượng như ông
bạn, tôi chẳng chút gì ái ngại hay lo lắng cả.
Ta Mã Sum nghiêng đầu một cách cung kính, tỏ
lòng cám ơn mỹ ý của đạo sĩ nhưng trong lòng gã đang ngổn ngang
trăm mối. Trán gã nhăn lại, cử chỉ gã mất phần tự nhiên.
Gã nghĩ: Suốt cả đời ta ngang dọc, tung
hoành vào sinh ra tử, chưa bao giờ ta có được một phần mười số bạc mà lão sư
già đang làm chủ. Ta đang đói rách, khốn khổ trong khi lão có 200 nén bạc lại
nghĩ đến việc đúc tựơng Phật.
Gã thở dài: Ta đã già rồi! Tuổi 40 là
tuổi về vườn, vô dụng. Kiếm sĩ đến tuổi đó còn hoạt động gì được nữa? Chẳng ai
thu dụng ta. Với số bạc 200 nén của lão sư già chắc chắn ta sẽ sống một cuộc
đời sung sướng. Nhưng có bao giờ lão cho ta một ít. Họa là điên mới làm thế vì
xem ra, lão đang say mê chuyện đúc tượng Phật và chẳng nghĩ gì khác nữa....
Lòng ghen tức bắt đầu giày vò tâm trí Ta Mã
Sum. Ðôi lúc hắn mong cho vị sư già để quên đâu đó cái bị bạc và hắn sẽ chiếm
lấy, trốn đi. Một ý nghĩ táo bạo đến với hắn. Hắn chép miệng, nhủ thầm: “ Ðời
chỉ là một cuộc phiêu lưu mà mục đích chỉ là tốt hay xấu mà thôi, gặp thời thế
phải lợi dụng nó, có khi phải tự mình tạo ra thời thế. . .”.
Ban đầu, Ta Mã Sum cố xua đuổi những ý nghĩ
bất chính, nhưng lần hồi lòng tham đã làm mờ mịt lý trí của gã. Gã chỉ nghĩ
cách làm sao đoạt cho được số bạc của sư già. Sư già thì chẳng hề để ý
gì đến sự thay đổi của Ta Mã Sum. Ông luôn tin tưởng vào người mà ông đã
nhận là bạn đồng hành.
Hai người đến thị trấn Quản A. Ðường đi bị
gián đoạn bởi một eo biển phải dùng thuyền mới qua được. Người lái thuyền
chờ cho đủ 30 khách mới lái thuyền đi. Khi bước xuống thuyền, vị sư già loạng
choạng thế nào xuýt té xuống nước. Trông thấy thế, Ta Mã Sum lòng mừng khấp
khới. Hắn đã tìm ra cách thủ tiêu nhà sư để đoạt gói bạc.
Hắn dìu nhà sư đến ngồi sau lái, ở một chỗ
vắng người. Gói bạc để ở giữa. Vờ trỏ cho nhà sư một con cá đang nhảy lên khỏi
mặt nước, thừa lúc nhà sư nghiêng mình xuống xem, Ta Mã Sum bèn đẩy nhẹ một
cái. Nhà sư té ngũm ngay xuống biển.
Chờ cho thuyền chạy được một quãng, Ta
Mã Sum mới làm bộ la lớn:
-Trời ơi! Bạn tôi té xuống biển rồi, ngừng
lại mau! Ngừng lại mau!
Gió lúc đó đang thổi mạnh. Buồm căng gió đẩy
con thuyền đi vùn vụt. Khi người lái thuyền cố sức neo thuyền lại thì không còn
thấy dấu vết nhà sư đâu nữa cả.
Ta Mã Sum gào lên, nước mắt hắn giàn giụa:
- Lão đạo sĩ đó là bạn thân thiết của tôi.
Trời ơi, bây giờ ông chết đi bỏ tôi lại một mình, khổ sở thân tôi!
Mọi người trên thuyền thấy vậy đều xúc động.
Ta Mã Sum lau nước mắt, đoạn nói với mọi người:
- Chúng ta phải trình vịệc này tới nhà chức
trách địa phương, nhưng tôi nghĩ làm thế mất nhìều thì giờ khai báo, phiền đến
quý vị sợ chậm trễ công việc. Tôi cũng vậy, tôi cũng có việc gấp cần đi ngay.
Vả lại, nếu khai báo, sợ bác lái thuyền bị nghi oan, tội nghiệp. Chi bằng ta cứ
tiếp tục hành trình, đến Ki Ô Tô, tự tôi sẽ đứng ra khai báo việc này, khỏi
phiền đến quý vị.
Mọi người, kể cả bác lái thuyền, thấy có lý,
sợ phiền phức, liên lụy nên ai cũng đồng ý là giữ kín chuyện này và cứ tiếp tục
hành trình.
Khi thuyền cập bến, Ta Mã Sum cặp cái bị bạc,
nhảy phóc lên bờ, trong chốc lát, không còn thấy hắn đâu nữa.
Tối hôm đó, trong phòng riêng tại lữ quán, Ta
Mã Sum mở bị bạc ra xem. Hắn lóa mắt khi đếm đúng 200 nén bạc nằm trong chiếc
bị vải cũ kỹ, rách rưới đó.
Bây giờ số bạc đó thuộc về hắn. Hắn vẽ ra
trong đầu kế hoạch dùng số bạc đó làm vốn để mai này càng ngày, càng nẩy nở
thêm ra. Từ đây, hắn đã thoát cơn nghèo đói.
Hắn đến Ki Ô Tô, thay tên đổi họ, không còn
là kiếm sĩ nữa mà trở nên một thương gia: Tô Cự Bi, thương gia mễ cốc.
Hai thanh kiếm võ sĩ đạo, hắn bọc vào trong
túi gấm và cất kỹ vào một chiếc hòm. Bây giờ, công việc hằng ngày của hắn là
giao dịch, bán buôn, làm ăn càng ngày càng phát đạt, Tô Cự Bi lấy vợ, đẻ con.
Hắn thành đạt ngoài sức tưởng tượng. Tuy nhiên, đôi lúc hắn cảm thấy lương tâm
cắn rứt. Hắn biết rõ cái sự nghiệp đồ sộ của hắn hôm nay là do tội ác mà nên.
Ðể cố quên chuyện xấu xa và những ám ảnh ghê rợn, hắn lao đầu công việc làm ăn,
mong nhờ những bận rộn hằng ngày xua đuổi những ý nghĩ giày vò tâm trí hắn.
Từ lúc hắn đến lập nghiệp ở Ki Ô Tô thắm
thoát mà đã ba năm. Tô Cự Bi cảm thấy cần nghỉ ngơi đôi chút để dưỡng già. Hắn
mua một biệt thự xinh đẹp, có một vườn hoa to rộng đầy anh đào, có thêm mấy cây
tùng.
Hôm ăn tân gia, tuy được bạn bè thân thuộc
chúc mừng nhưng Tô Cự Bi không khỏi một thoáng buồn rầu vì cái sản nghiệp hắn
mới tậu thêm đây cũng do nơi tội ác của hắn ngày xưa mà có. Hắn cứ nguyền rủa
mãi sự nghèo đói. Chính nghèo đói đã xui hắn làm bậy, tạo nên tội ác. Càng nghĩ
đến nhà sư, hắn càng hối hận. Nhà sư từ bi, đạo đức bao nhiêu thì hắn độc ác,
xấu xa, bẩn thỉu bấy nhiêu.
Ðêm hôm đó, nhân trời có trăng, Tô Cự Bi dạo
trong hoa viên. Mắt hắn chợt để ý đến một cây tùng. Cây tùng lạ làm sao! Hình
như có một cái bóng người mờ ảo đang hiện ra từ thân và cành của cây tùng. Thân
cây là thân người, cành cây là tay, chân. Hình ảnh đó ban đầu lờ mờ, ảo ảo
nhưng càng lúc càng hiện rõ ra. Ðó là hình dáng một người mình hạc, xương mai,
đầu trọc lóc, đôi mắt sâu, má hóp, da dẻ tái xanh như một người chết trôi sông.
Người chết đó, trời ơi, đang cử động. Lại cười nửa! Nụ cười thật khoan hòa, hỉ
xả. . .
Mồ hôi Tô Cự Bi vả ra như tắm. Hắn hốt hoảng
hét lên:
- Kìa, nhà sư!
Thây ma của nhà sư từ từ đi về phía Tô Cự Bi,
càng lúc càng lớn dần nên làm Tô Cự Bi hoảng sợ, chôn chặt chân một chỗ, không
còn đủ sức chạy trốn.
Thây ma đạo sĩ đưa đôi tay khẳng khiu đã rửa
hết thịt ra ôm choàng lấy Tô Cự Bi, kề bộ mặt buồn thảm sát dần, sát dần mặt
tên trọc phú.
Trước hình ảnh khiếp đảm đó, dầu là một kiếm
sĩ đi nữa cũng phải kinh hoàng, chết giấc nhưng vì nguy hiểm đến kề bên mình
nên Tô Cự Bi thấy máu anh hùng nổi lên. Hắn sực nhớ mình là một kiếm sĩ. Lập
tức hắn chạy vào nhà lấy thanh kiếm ra. Hắn múa lên như gió bão, nhắm thây ma của
nhà đạo sĩ mà chém tới tấp. Hắn chém rất trúng nhưng lạ thay, thây ma đạo sĩ
giống như sương khói, hết tan lại tụ, cứ sán lại, ôm choàng lấy tên cựu kiếm
sĩ. Sốt ruột, Tô Cự Bi chém mạnh một kiếm, chiếc đầu của nhà sư bay tung lên.
Nhưng kìa lạ lùng thay, chiếc đầu lại rơi xuống nối liền vào cổ và thây ma lại
lạnh lùng tiến tới.
Cuộc chiến đấu giữa người và ma cứ thế mà kéo
dài suốt đêm. Ðến rạng sáng hồn ma mới tan đi.
Ðêm sau, rồi đêm sau nữa cũng vậy, thây ma
của nhà sư xuất hiện từ cây tùng và cuộc chiến lại tái diễn làm Tô Cự Bi cảm
thấy kiệt lực. Hắn ra lệnh đốn ngã cây tùng nhưng đêm đến, thây ma nhà sư lại
hiện ra từ một cây tùng khác. Tô Cụ Bi đâm ra sợ đêm tối. Cứ tắt mặt trời là
hắn đã hoảng hốt, lo sợ. Cuối cùng, hắn đóng chặt của phòng, giam mình trong
nhà, không dám ra ngoài vườn khi đêm đến. Nhưng lạ thay, vừa đóng cửa phòng,
hắn đã thấy thây ma của nhà sư hiện lên trên đầu giường, trên cửa sổ.
Tô Cự Bi phát bịnh nặng. Suốt ngày hắn vùi
đầu trong chăn nệm, miệng luôn luôn nói sảng.
Vợ hắn tìm khắp mặt các lương y trong vùng,
xin đơn, hốt thuốc nhưng bịnh tình của Tô Cự Bi vẫn không mảy may thuyên giảm.
Bịnh tình kỳ lạ của nhà đại phú thong Tô Cự Bi được loan truyền đi khắp vùng,
ai nghe cũng lấy làm thắc mắc.
Trong vùng đó có một nhà sư, nghe chuyện lạ
thì tìm tới. Nhà sư này nổi tiếng là đạo đức, ai gặp việc gì khó khăn cũng tìm
tớí ông chỉ dẫn. Con hầu của Tô Cự Bi, một hôm, đem chuyện nhà kỳ lạ của chủ
nhân mình bạch với nhà sư. Nhà sư hỏi rõ ngọn nguồn, suy nghĩ một lát, đoạn bảo
người tớ gái nhà đại phú.
- Nếu đã uống đủ mọi thứ thuốc thang mà không
lành thì làm lễ khấn nguyện, xin Trời Phật hộ trì, may ra sẽ thuyên giảm chăng.
Vợ Tô Cự Bi nghe vậy bèn rước nhà sư về nhà,
kể lể đầu đuôi câu chuyện cho nhà sư biết. Ðoạn, bà ta đưa nhà sư vào phòng của
Tô Cự Bi. Vừa trông thấy nhà sư, bệnh tình của Tô Cự Bi bỗng gia tăng trầm
trọng, Hắn chỉ tay vào nhà sư mà la hoảng: - Ðó. . . đó. . . Nhà sư. Rõ
ràng không còn ai vào đó. Nhà sư ngày trước trở về báo thù ta. Bắt lấy hắn, bắt
lấy hắn. Cứu tôi, trời ơi!
Hắn run lên cằm cặp, vơ vội mền chiếu trùm
kín lên người, che kín mặt như cố chạy trốn hình ảnh người đối diện.
Nhà sư yêu cầu để ông ở lại một mình trong
phòng, đoạn bước tới gần Tô Cự Bi, ông nói:
- Phải, tôi là nhà sư, bạn đồng hành của
ông mấy năm về trước. Tôi chính là người đã bị ông xô xuống biển cách đây 3 năm
qua.
Tô Cự Bi run lên. Tay chân hắn cử động như một thây ma của người
treo cổ bị gió đùa. Thây ma mọi hôm ở trong vườn không hề nói một tiếng, tại
sao hôm nay lại nói? Còn hình phạt khủng khiếp nào nửa đây?
Có lẽ đoán được ý nghĩ của Tô Cự Bi, nhà sư thong thả nói:
- Tôi không phải là thây ma. Tôi là người
sống. Tôi nhắc lại, tôi là nhà sư đã kết bạn cùng ông trên đoạn đường đến Ki Ô
Tô. Tôi chính là người đã bị ông xô xuống biển cho chết chìm. Cũng may từ nhỏ
tôi đã tập bơi nên hôm đó, tôi bơi được vào bờ, thoát chết.
Tôi đã tìm ông khắp chốn để xin lại số bạc
hầu đúc cho được tượng Phật nhưng không tìm thấy ông đâu cả. Tôi bèn tiếp tục
cuộc sống lanh thang, đi khắp bốn phương, khất thực, xin mọi người bố thí và
tôi đã gom được số tiền đủ để đúc tượng Phật. Tượng Phật
hiện đã hoàn thành.
Sự tình cờ đưa tôi đến đây. Tôi đẵ hiểu vì đâu ông sinh bịnh. Ông
đã phạm vào một tội ác kinh khủng nhất đời, đó là tội sát nhơn. Tuy nhiên, tôi
là kẻ tu hành, tôi tha thứ cho ông. Ðức Phật đã dạy: “Lấy đức báo oán, oán ấy
tiêu tan”. Phải chấm dứt thù oán và sẳn sàng tha thứ. Tôi không hề thù oán gì
ông cả. Ông cứ yên tâm. Hãy nhìn tôi đây. . .
Tô Cự Bi lấm lét nhìn nhà
sư. Ông ta đang mỉm cười với hắn. Ôi, nụ cười đầy khoan dung, hiền hòa vô
lượng, làm lòng hắn tự nhiên cảm thấy nhẹ nhàng. Cuối cùng hắn khóc nức lên,
quỳ xuống chân nhà sư:
- Tội lỗi tôi thật tày đình. Tôi đã xô Ngài xuống biển để đoạt lấy
số bạc. Xin Ngài tha tội cho tôi, chỉ vì tôi quá khốn khổ . . .
- Phải, con người sinh ra bản tính vốn thiện nhưng rồi cuộc đời
làm cho vẩn đục. Nghèo khổ đẩy con người vào mê lầm, tội ác, nhưng biết sám hối
thì tội lỗi sẽ được nhẹ đi…
- Thưa đạo sĩ, con hối hận vô cùng. Ðêm nào con cũng bị ám ảnh
giày vò, hành hạ không nguôi. Lương Tâm con không được yên ổn để hưởng cảnh
giàu sang.
- Phải rồi, khi mình làm điều ác thì lương tâm không yên ổn,
chỉ một thoáng gió xao động cành cây cũng đủ giật mình.
Nhà sư và cựu kiếm sĩ nói chuyện với nhau y như ba năm trước họ
gặp nhau trên con đường đến Ki Ô Tô vậy.
Tô Cự Bi khẩn khoản xin trả cho nhà sư 400 nén bạc, tức gấp đôi số
bạc mà hắn đã cướp của nhà sư, nhưng nhà sư khoát tay, từ chối:
- Không, tôi không cần dùng đến số bạc đó nữa. Tôi đã đúc xong
tượng Phật rồi.
Tô Cự Bi van nài:
- Nếu đạo sĩ không nhận tức là đạo sĩ chưa
thật lòng tha thứ cho đệ tử. Xin Ngài cứ nhận rồi bố thí lại cho chúng sinh
nghèo khổ.
- Nếu nhận để cho người nghèo khổ thì được,
tôi nhận. Bây giờ, tôi xin phép cáo từ. Nếu ông bạn muốn tôi được vui lòng xin
ông bạn hãy dọn mình cho trong sạch, từ nay nên làm vịêc thịên. Cần tha thứ kẻ
khác và lộng lượng với những kẻ khốn nghèo.
Từ đó, nhà phú thương Tô Cự Bi hết bịnh, tâm
hồn trở nên thư thái. Ông tỏ ra nhân đức, sẵn lòng cứu giúp mọi người.
Cuộc đời về già của ông được dùng để làm toàn
việc thiện. Người ta thường thấy ông lim dim mắt và niệm:
- Nam Mô A Di Ðà Phật!
Tô Kiều Ngân
“Ở thế gian này, chẳng phải hận
thù trả được hận thù, chỉ có từ bi trừ được hận thù. Ðó là định luật của ngàn
xưa”.